CHUYÊN MỤC

SỰ KHÁC NHAU GIỮA LUẬT THANH TRA 2010 SO VỚI PHÁP LỆNH THANH TRA 1990 VÀ LUẬT THANH TRA 2004

(ngày đăng bài: 21/09/2021)
     Ngày 01/4/1990, Pháp lệnh Thanh tra - một văn bản mang tính pháp lý cao được công bố. Pháp lệnh Thanh tra gồm 6 chương, 41 điều quy định về hệ thống tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Nhà nước, tổ chức Thanh tra nhân dân và trình tự thanh tra, Ủy ban Thanh tra Nhà nước được đổi thành Thanh tra Nhà nước.

     Pháp lệnh Thanh tra ra đời đã đáp ứng được đòi hỏi cấp bách lúc đó là giữ vững trật tự, kỷ cương trong các hoạt động kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quá trình đổi mới là phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của cơ quan tổ chức. Bên cạnh đó, Pháp lệnh còn có ý nghĩa quan trọng góp phần thực thi có hiệu quả các Nghị quyết Hội nghị Trung ương khóa VI vào cuối những năm 80. Tuy nhiên, trước đòi hỏi ngày càng tăng của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, trong xu thế toàn cầu hóa, vai trò và vị trí của ngành Thanh tra được Đảng và Nhà nước coi trọng. Ngày 16/6/2004, Quốc hội thông qua Luật Thanh tra và ngày 26/4/2004, Chủ tịch nước công bố Luật Thanh tra. Luật Thanh tra năm 2004 sau khi có hiệu lực đã góp phần tạo lập khung pháp lý quan trọng cho việc hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra.

     Mặc dù đạt được kết quả đó, song thực tiễn công tác thanh tra những năm tiếp theo đó vẫn cho thấy sau 5 năm thực hiện, Luật này đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Để khắc phục hạn chế, bất cập đó, ngày 15/11/2010, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật Thanh tra số 56/2010/QH12 thay thế Luật Thanh tra số 22/2004/QH11. Điều đó khẳng định tầm quan trọng của công tác thanh tra trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội Đảng IX năm 2001 đề ra. Luật Thanh tra là văn bản pháp lý cao nhất của Nhà nước đối với ngành Thanh tra gồm 5 chương, 70 điều quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, hệ thống tổ chức của ngành Thanh tra. Sự ra đời của Luật Thanh tra góp phần khắc phục sự hoạt động độc lập của các tổ chức thanh tra chuyên ngành với tổ chức Thanh tra nhà nước cấp Bộ đã tồn tại nhiều năm, gây những khó khăn, trở ngại cho Bộ trưởng, thủ trưởng ngành quản lý các hoạt động thanh tra, kiểm tra của Bộ.

     Chúng ta có thể thấy, pháp luật về thanh tra đã có sự thay đổi, phát triển ngày càng hoàn thiện hơn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, địa vị pháp lý, tổ chức bộ máy của các cơ quan Thanh tra Nhà nước qua các thời kỳ được quy định tại Pháp lệnh Thanh tra 1990, Luật Thanh tra 2004 và Luật Thanh tra 2010. Cụ thể như sau:

     1. Về mục đích, chức năng và địa vị pháp lý của các cơ quan Thanh tra nhà nước:

     a. Về chức năng:
     Điều 1, Pháp lệnh thanh tra năm 1990 quy định chức năng của hoạt động thanh tra như sau: “Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý Nhà nước; là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý Nhà nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa”.

     Điều 5, Luật Thanh tra 2010 đã quy định rõ ràng hơn chức năng của cơ quan thanh tra nhà nước trong từng lĩnh vực cụ thể, đó là: “Cơ quan thanh tra nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện và giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật”  chứ không chỉ nêu chung chung như trong pháp lệnh Thanh tra 1990.

     b. Về mục đích hoạt động:

     Theo Điều 1, Pháp lệnh Thanh tra 1990 thì mục đích của hoạt động thanh tra là nhằm: “…phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý các vi phạm, góp phần thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ, hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân”.

     Điều 3, Luật Thanh tra 2004 quy định rõ hơn mục đích của hoạt động thanh tra, đó là đề cao mục đích thanh tra là phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật: “Hoạt động thanh tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

     Và nếu như trong điều 3, Luật Thanh tra năm 2004 đề cao mục đích thanh tra là phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật thì điều 2, Luật Thanh tra năm 2010 đã thể hiện rõ hơn mục đích thanh tra theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thanh tra là tai mắt của trên, là người bạn của dưới”, đó là: “Mục đích hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Với vai trò là công cụ của quản lý nhà nước, mục đích chủ yếu của hoạt động thanh tra là giúp chủ thể quản lý nhà nước kiểm soát và bảo đảm cho các đối tượng quản lý chấp hành đúng chính sách, pháp luật chứ không chỉ là tìm ra vi phạm để xử lý, cho nên Luật Thanh tra năm 2010 đã xác định hoạt động thanh tra ngoài việc phát hiện, xử lý những sai phạm; kiến nghị việc khắc phục, hoàn thiện cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật còn có mục đích là giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng các quy định của pháp luật, nhất là các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể. Đây cũng  là xu hướng chung của hoạt động thanh tra trên thế giới hiện nay.

     c. Địa vị pháp lý:

     - Theo Pháp lệnh Thanh tra thì thủ trưởng cơ quan thanh tra cấp trên sẽ bổ nhiệm thủ trưởng cơ quan thanh tra cấp dưới.

     - Về địa vị pháp lý của cơ quan thanh tra, Luật Thanh tra năm 2004 đã có những cải tiến so với Pháp lệnh Thanh tra theo hướng tăng thẩm quyền cho bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, chủ tịch UBND cấp tỉnh, giám đốc sở và chủ tịch UBND cấp huyện thông qua việc lựa chọn và bổ nhiệm thủ trưởng cơ quan thanh tra thuộc cấp mình quản lý.

     Sự phân quyền này là hợp lý bởi thực tế hiện nay nhiệm vụ chính của thủ trưởng cơ quan thanh tra là tham mưu trực tiếp với người bổ nhiệm mình trong công tác quản lý hành chính về lĩnh vực khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng trong phạm vi địa phương hoặc ngành mà mình quản lý.

     - Luật Thanh tra 2010 đã có một bước tiến mới là nâng cao địa vị pháp lý của cơ quan thanh tra, xác định tính độc lập tương đối của các cơ quan thanh tra trong mối quan hệ với cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp. Luật quy định rõ cơ quan thanh tra có quyền chủ động tiến hành thanh tra theo kế hoạch thanh tra đã được phê duyệt; trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì Thủ trưởng cơ quan thanh tra có quyền quyết định thanh tra và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Bên cạnh đó, Luật Thanh tra 2010 còn quy định Thủ trưởng cơ quan Thanh tra có quyền đề nghị hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành tiến hành thanh tra trong phạm vi quản lý của cơ quan, đơn vị mình khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật, nếu các chủ thể này không đồng ý thì Thủ trưởng cơ quan Thanh tra có quyền ra quyết định thanh tra đối với vụ việc đó; quy định Thủ trưởng cơ quan Thanh tra có quyền quyết định thanh tra lại vụ việc đã được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết luận nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật.

     Thanh tra Chính phủ có địa vị pháp lý như các bộ, cơ quan ngang bộ khác, tức là có địa vị pháp lý độc lập, có phạm vi quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực riêng. Cụ thể là quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng…; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Với tinh thần đó, Luật thanh tra lần này quy định rõ địa vị pháp lý, vai trò, tính độc lập và tự chịu trách nhiệm về các quyết định, kết luận, kiến nghị trong quá trình hoạt động của các cơ quan thanh tra nói chung và Thanh tra Chính phủ nói riêng. Đồng thời, bổ sung những quy định mới nhằm bảo đảm cho Thanh tra Chính phủ thực hiện tốt vai trò của cơ quan ngang bộ giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác thanh tra, theo đúng quy định của Luật tổ chức Chính phủ.

     Xuất phát từ lý do trên, Luật đã xác định thanh tra các cấp, các ngành là cơ quan chuyên môn hoặc cơ quan của cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp, có quyền tiến hành thanh tra và giúp cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra. Thanh tra Chính phủ là cơ quan ngang bộ, giúp Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng trong phạm vi quản lý của Chính phủ và tiến hành hoạt động thanh tra theo quy định của pháp luật.

     2. Về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra nhà nước:

     a. Về tổ chức:

     - Điều 3, Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 quy định hệ thống tổ chức của các cơ quan thanh tra nhà nước gồm:
“1. Thanh tra Nhà nước;
2. Thanh tra Bộ, Uỷ ban Nhà nước, cơ quan thuộc Hội đồng bộ trưởng;
3. Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương;
4. Thanh tra Sở;
5. Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
   Chức năng thanh tra Nhà nước ở xã, phường, thị trấn do Uỷ ban nhân dân cùng cấp trực tiếp đảm nhiệm.
   Thanh tra Nhà nước chịu sự chỉ đạo của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng; các tổ chức thanh tra Nhà nước khác chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ trưởng cùng cấp và sự chỉ đạo của tổ chức thanh tra Nhà nước cấp trên.

     ­- Luật Thanh tra năm 2004 phân định cơ quan thanh tra Nhà nước gồm: cơ quan thanh tra được thành lập theo cấp hành chính và cơ quan thanh tra được thành lập ở cơ quan quản lý theo ngành, lĩnh vực.

     - Còn Luật Thanh tra 2010 chỉ quy định về các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra, gồm: Cơ quan thanh tra Nhà nước và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, quy định tại điều 4:
“ Cơ quan thực hiện chức năng thanh tra
   1. Cơ quan thanh tra nhà nước, bao gồm:
   a) Thanh tra Chính phủ;
   b) Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ (sau đây gọi chung là Thanh tra bộ);
   c) Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Thanh tra tỉnh);
   d) Thanh tra sở;
   đ) Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Thanh tra huyện).
   2. Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành”.
Việc thay đổi về tổ chức như trên là nhằm nâng cao tính hệ thống của các cơ quan thanh tra nhà nước, đồng thời xác định rõ đối tượng thanh tra, phạm vi thanh tra giữa các cơ quan thanh tra, giữa cơ quan thanh tra nhà nước với cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, khắc phục sự trùng lặp trong hoạt động thanh tra.

     b. Về nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra nhà nước và người đứng đầu cơ quan thanh tra nhà nước:

     - Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 quy định thanh tra nhà nước có nhiệm vụ, quyền hạn: Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch Nhà nước của các cơ quan, tổ chức và cá nhân, trừ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, kiểm sát của các cơ quan điều tra, kiểm sát, tòa án và việc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, xử lý vi phạm pháp luật hợp đồng kinh tế của cơ quan trọng tài kinh tế. Xem xét, kiến nghị cấp có thẩm quyền giải quyết hoặc giải quyết theo thẩm quyền các khiếu nại, tố cáo. Trong  phạm vi chức năng của mình, chỉ đạo về tổ chức, hoạt động thanh tra đối với cơ quan, tổ chức hữu quan. Tuyên truyền, hướng dẫn việc thực hiện pháp luật thanh tra. Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền những vấn đề về quản lý nhà nước cần sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành các quy định phù hợp với yêu cầu của quản lý nhà nước. Ngoài ra, pháp lệnh Thanh tra cũng quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra, người đứng đầu cơ quan thanh tra; nhiệm vụ, quyền hạn của những người tiến hành thanh tra; quy định về thanh tra viên, cộng tác viên và nhiều vấn đề khác liên quan đến công tác thanh tra. Được quy định cụ thể tại Điều 8, Điều 9, Điều 10, Điều 11, Điều 12, Điều 13, Điều 14, Điều 15, Điều 16, Điều 17, Điều 18, Điều 19, Điều 20, Điều 21, Điều 22 cúa Pháp lệnh Thanh tra 1990.

     - Luật Thanh tra 2004 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, người đứng đầu cơ quan thanh tra tại Điều 15, Điều 16, Điều 18, Điều 19, Điều 21, Điều 22 như sau: cơ quan thanh tra có nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước; thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra… và tổng hợp báo cáo kết quả về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng.

     Người đứng đầu cơ quan thanh tra có nhiệm vụ, quyền hạn lãnh đạo, chỉ đạo công tác thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp; xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra; đề nghị Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp trong phạm vi trách nhiệm của cơ quan đó; kiến nghị thủ trưởng cơ quan quản lý xem xét trách nhiệm, xử lý người có hành vi vi phạm thuộc quyền quản lý… và kiến nghị giải quyết những vấn đề về công tác thanh tra.

     - Luật Thanh tra 2010 tập trung tăng cường các nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra cũng như người đứng đầu các cơ quan này. Đồng thời, phân định làm rõ các nhiệm vụ, quyền trong hoạt động quản lý nhà nước về thanh tra với nhiệm vụ, quyền trong hoạt động thanh tra; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra với nhiệm vụ, quyền hạn của người đứng đầu cơ quan thanh tra. Các nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra, người đứng đầu cơ quan thanh tra trong Luật Thanh tra 2010 về cơ bản được kế thừa từ Luật Thanh tra năm 2004. Song Luật Thanh tra 2010 đã bổ sung các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây cho các cơ quan thanh tra, người đứng đầu cơ quan thanh tra, quy định tại các Điều 15, Điều 16, Điều 18, Điều 19, Điều 21, Điều 22, Điều 24, Điều 25, Điều 27, Điều 28, Điều 29, Điều 30, cụ thể như sau:

     + Bổ sung việc quyết định thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật cho Chánh thanh tra các cấp, các ngành. Việc bổ sung quyền năng này là nhằm tăng cường tính chủ động cho người đứng đầu các cơ quan thanh tra trong việc thực hiện nhiệm vụ thanh tra, bảo đảm tính linh hoạt, nhanh nhạy của thanh tra trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội hiện nay.

     + Bổ sung việc thanh tra đối với các doanh nghiệp nhà nước do Thủ trưởng cơ quan quản lý quyết định thành lập. Đây là nội dung được xác định rõ hơn nhiệm vụ của các cơ quan thanh tra trong hoạt động thanh tra đối với đối tượng thanh tra là các doanh nghiệp.

     + Bổ sung việc kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết định xử lý sau thanh tra của Thủ trưởng cơ quan quản lý cấp dưới thuộc thẩm quyền quản lý của Thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp.

     + Bổ sung việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra, kết luận thanh tra.

     + Bổ sung việc quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Thủ trưởng cơ quan quản lý cấp dưới của Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp đã kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp. Thực tế cho thấy nhiều trường hợp vụ việc đã được các cơ quan thanh tra cấp dưới tiến hành thanh tra, song vì lý do nào đó mà không thể phát hiện hết các vi phạm pháp luật, do vậy Luật thanh tra đã bổ sung quyền thanh tra lại vụ việc đã được Thủ trưởng cơ quan quản lý cấp dưới của Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp đã kết luận nhưng thanh tra cấp trên phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật, nhằm đáp ứng yêu cầu công tác phòng, chống các vi phạm pháp luật hiện nay, bảo đảm mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được phát hiện và xử lý kịp thời.

     3. Những nhiệm vụ ngành Thanh tra phải tập trung vào trong giai đoạn tới:
     Trong những năm qua, công tác thanh tra đã có những chuyển biến mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. Các cuộc thanh tra được triển khai rộng khắp trên cả nước, trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội và đã góp phần không nhỏ vào việc tăng cường hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý nhà nước cũng như củng cố trật tự quản lý trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Ngoài việc phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm, các cơ quan thanh tra nhà nước đã có hàng ngàn kiến nghị có giá trị giúp cho các cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, pháp luật để hoàn thiện cơ chế quản lý, tạo lập hành lang pháp lý và môi trường lành mạnh cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như bình ổn an sinh xã hội.

     Tuy nhiên, thời gian vừa qua, công tác thanh tra vẫn còn nhiều tồn tại như: sự phụ thuộc quá lớn của các cơ quan thanh tra nhà nước vào cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp cả về về tổ chức, nhân sự, kinh phí, trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra, trong quá trình tiến hành thanh tra cũng như giai đoạn kết thúc, kết luận và kiến nghị xử lý; thời hạn các cuộc thanh tra thường kéo dài, vi phạm thời gian theo quy định của pháp luật, không đáp ứng được yêu cầu khẩn trương, kịp thời của công tác quản lý nhà nước. Hàng năm, số lượng Đoàn thanh tra không thực hiện đúng tiến độ theo quy định pháp luật và phải chuyển sang năm sau để tiếp tục thực hiện chiếm tỷ lệ khá cao;  Công tác thanh tra chỉ chú trọng khâu phát hiện, kiến nghị, xử lý sai phạm, việc bảo đảm thực thi kết luận thanh tra chưa thực sự được quan tâm. Trong khi đó, hiệu lực hiệu quả của công tác thanh tra phụ thuộc rất lớn vào việc nhận thức và triển khai đầy đủ các kết luận, kiến nghị sau thanh tra được xử lý như thế nào. Theo báo cáo công tác của ngành Thanh tra và kết quả khảo sát các bộ, ngành, địa phương cho thấy hiệu quả của việc thực hiện các kết luận, kiến nghị thanh tra còn thấp, tỷ lệ thu hồi tiền, tài sản thất thoát thấp so với các kiến nghị trong các kết luận thanh tra. Việc thực hiện các kiến nghị khác trong các kết luận thanh tra cũng chiếm tỷ lệ không cao. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của công tác thanh tra.

     Để nâng cao chất lượng của công tác thanh tra trong thời gian tới ngành thanh tra cần phải tập trung vào các nhiệm vụ sau:

     Một là, tăng cường nhận thức về vị trí, vai trò của công tác thanh tra: Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, trong thời gian tới cần nâng cao hơn nữa nhận thức về vị trí, vai trò của công tác thanh tra. Trong đó cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ hơn về hoạt động thanh tra trong công tác quản lý nhà nước. Thanh tra là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, là một phương thức của kiểm tra, là chức năng của quản lý và là công cụ của người lãnh đạo, người quản lý; thanh tra góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước; thanh tra là một phương thức bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, cần nhấn mạnh tính mục đích của hoạt động thanh tra hiện nay. Thanh tra không chỉ nhằm phát hiện, xử lý khuyết điểm, vi phạm mà còn là phát huy các nhân tố tích cực, giúp các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân là đối tượng thanh tra thực hiện đúng các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Đồng thời góp phần tích cực vào việc hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật. Chỉ khi nào, và chừng nào làm được như vậy mới thể hiện được một cách trọn vẹn nhất ý nghĩa của công tác thanh tra, làm cho thanh tra thực sự là cầu nối giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân.

     Hai là, hoàn thiện các quy định của pháp luật về thanh tra và các quy định của pháp luật về việc thực hiện kết luận, kiến nghị sau thanh tra: Các quy định pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể thực hiện quyền thanh tra là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả hoạt động thanh tra. Hoạt động thanh tra chỉ có thể được thực hiện hiệu quả trên cơ sở những quy định pháp luật đầy đủ, đồng bộ. Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra là giải pháp quan trọng, cơ bản để nâng cao kết quả hoạt động thanh tra.

     Cụ thể: Cần có quy định cụ thể về quy trình kiểm tra, đôn đốc thực hiện các kết luận thanh tra thống nhất trong toàn ngành; Quy định cụ thể về xử lý về trách nhiệm cá nhân đối với thủ trưởng các cơ quan hành chính khi trong việc tổ chức thực hiện các kết luận thanh tra; Có chế tài cụ thể về pháp luật, tài chính, xử phạt đủ mạnh trong việc xử lý các đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan đến việc thực hiện các kết luận thanh tra mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các kết luận thanh tra như cưỡng chế thi hành, phong toả tài khoản, cấm tham gia đấu thầu hoặc chỉ định thầu đối với các doanh nghiệp chưa thực hiện đầy đủ kiến nghị thanh tra…;  Xây dựng cơ chế phối hợp với Thanh tra nhân dân, tranh thủ sự kiểm tra, giám sát của Thanh tra nhân dân đối với việc thực hiện quyết định, kết luận, kiến nghị sau thanh tra. Tăng tính độc lập và bổ sung thẩm quyền cho các cơ quan thanh tra sao cho các kết luận thanh tra không chỉ là kiến nghị mà buộc các cơ quan, đơn vị, cá nhân phải thực hiện. Bên cạnh đó cần tăng thẩm quyền cho các cơ quan thanh tra trong việc theo dõi, giám sát việc thực hiện các kết luận, kiến nghị sau thanh tra, đồng thời quy định trách nhiệm báo cáo, thông tin về quá trình thực hiện các kết luận, kiến nghị thanh tra. Trong Luật và những văn bản hướng dẫn thi hành phải quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của: đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật, những cơ quan, tổ chức có quyền nghĩa vụ liên quan, các cơ quan nhà nước trực tiếp kiểm tra, đôn đốc các đối tượng liên quan thực hiện Kết luận thanh tra.

     Và công tác thanh tra phải hướng vào việc đánh giá các cơ chế chính và việc thực hiện các cơ chế chính sách đó trong thực tiễn cuộc sống. Trong cơ chế pháp luật liên quan đến nhiệm vụ quyền hạn của thanh tra cũng như trong thực tiễn tiến hành các cuộc thanh tra thì đây phải được coi là ưu tiên hàng đầu. điều này càng trở nên cực kỳ quan trọng khi chúng ta đang trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước, trọng tâm là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, sự đánh giá cơ chế chính sách qua các kiến nghị của thanh tra là vô cùng cần thiết. Chúng ta đang sống trong một thời kỳ phát triển hết sức sôi động từ bản thân quá trình phát triển nền kinh tế thị trường với sức tăng trưởng đáng kể do mọi tiềm năng được phát huy. Thêm vào đó là sự hội nhập của Việt nam vào đời sống kinh tế - chính trị của thế giới. Trong bối cảnh đó, các tiêu chí đánh giá luôn có sự biến động. Bản thân các văn bản pháp luật cũng được thay đổi thường xuyên nhưng nhiều khi vẫn không phản ánh hết được thực tiễn cuộc sống, các quan hệ xã hội mới phát sinh. Chính vì vậy ngành thanh tra và cụ thể là những người đi thanh tra phải có quan điểm đúng và nhìn nhận các vấn đề với nhãn quan biện chứng, trong sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng để đánh giá chính xác các vấn đề mà mình thanh tra. Từ đó đưa ra các kiến nghị xác đáng để xử lý bản thân những vấn đề đó, đồng thời đưa ra các giải pháp hoặc dự kiến cho tương lai. Thanh tra lấy pháp luật làm chuẩn mực nhưng hơn thế nữa phải thấy được mục đích tối thượng trong quản lý nhà nước là hiệu quả quản lý, tính phục vụ nhân dân để xem xét đánh giá đúng sai, công và tội… Một việc làm nào đó mà chưa đúng với quy định của pháp luật nhưng lại có lợi cho nước, cho dân thì chính quy định đó cần phải được thanh tra kiến nghị sửa đổi. Như vậy thanh tra ngoài việc xem xét việc làm của đối tượng thanh tra còn phải xem xét chính chủ trương, chính sách có đúng không có phù hợp với thực tiễn hay không. Đây cũng là vấn đề rất phức tạp đòi hỏi người làm công tác thanh tra phải thật sự có năng lực, có thể chỉ ra nguyên nhân của các sai lầm khuyết điểm của đối tượng thanh tra để giúp họ khắc phục, sửa chữa “thanh tra không phải chỉ đi xem địa phương thực hiện chỉ thị nghị quyết thế nào. Nếu họ làm sai hay gặp khó khăn, còn giúp đỡ họ làm cho đúng với nghị quyết, chỉ thị của trên đưa xuống”. Làm được như vậy thanh tra mới thực sự là “người bạn của dưới”.

     Ba là, nâng cao chất lượng thực hiện kết luận, kiến nghị sau thanh tra

     Trên thực tế, việc bắt buộc các đối tượng liên quan thực hiện đầy đủ các kết luận, kiến nghị thanh tra là rất khó, bởi vì sau khi có kết luận thanh tra việc thi hành kết luận thanh tra chủ yếu phụ thuộc vào thủ trưởng cơ quan quản lý và ý thức chấp hành của đối tượng thanh tra. Để nâng cao chất lượng việc tổ chức thực hiện các kết luận, kiến nghị thanh tra, về phía các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc tổ chức thực hiện Kết luận thanh tra: Các cơ quan, tổ chức, cá nhân này phải có sự độc lập và khách quan, công tâm trong việc xem xét, xử lý các kiến nghị trong Kết luận thanh tra; Phải tổ chức tuyên truyền, giáo dục phổ biến rộng rãi các qui định của pháp luật đến các đối tượng thanh tra và các bên liên quan để những thành phần này có sự hiểu biết phạm vi, quyền hạn, lợi ích và trách nhiệm của mình khi thực hiện các Kết luận thanh tra; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hỗ trợ đối thoại giải đáp kịp thời các khó khăn vướng mắc về pháp luật cho người dân, đơn vị, công chức để mọi người tự nguyện tuân thủ đúng pháp luật. Tăng cường kiểm tra đôn đốc của Thủ trưởng cơ quan cấp trên đối với Thủ trưởng cơ quan cấp dưới, thường xuyên tiến hành kiểm tra theo dõi việc thực hiện các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra, xử lý người có hành vi phạm. Đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thực hiện Kết luận thanh tra: Cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của đối tượng thực hiện các kết luận thanh tra trong việc tổ chức thực hiện các kết luận, kiến nghị sau thanh tra.

     Bốn là, nâng cao vai trò, trách nhiệm của người ra quyết định thanh tra: Người ra quyết định thanh tra có vai trò rất quan trọng trong quá trình tổ chức thực hiện cuộc thanh tra, từ việc ra quyết định thanh tra, chỉ đạo quá trình thanh tra đến xây dựng báo cáo, kết luận thanh tra. Người ra quyết định thanh tra thực hiện chỉ đạo và giám sát suốt quá trình diễn ra cuộc thanh tra. Trên cơ sở báo cáo kết quả hoạt động thanh tra, người ra quyết định thanh tra ra văn bản Kết luận thanh tra, bảo đảm chất lượng của Kết luận thanh tra. Đây là cơ sở quan trọng đầu tiên của việc thực hiện có hiệu quả các kết luận, kiến nghị sau thanh tra. Vì các kết luận, kiến nghị có đúng, phản ánh khách quan kết quả thanh tra mới làm cho đối tượng thanh tra “tâm phục khẩu phục” và dư luận đồng tình, như vậy mới tạo cơ sở cho việc thực hiện có hiệu quả các kết luận, kiến nghị sau thanh tra. Có thể nói, người ra quyết định thanh tra có vai trò quan trọng, xuyên suốt quá trình tiến hành cuộc thanh tra và tổ chức thực hiện các kết luận, kiến nghị sau thanh tra. Vì vậy, trong thời gian tới cần đề cao vai trò và trách nhiệm của người ra quyết định thanh tra.

     Năm là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh tra
     Nhân tố chủ yếu tác động đến kết quả của hoạt động thanh tra chính là nhân tố con người làm công tác thanh tra, bao gồm phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn và ý thức trách nhiệm của cán bộ thanh tra. Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho các Thanh tra viên, thanh tra viên chính, thanh tra viên cao cấp và các công chức làm công tác thanh tra chuyên ngành để có phẩm chất đạo đức, kỹ năng, kỹ xảo...để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Việc này có ý nghĩa lâu dài đối với việc củng cố, phát triển nguồn lực con người, đặc biệt yếu tố này có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả các kết luận, kiến nghị thanh tra.

     Người cán bộ thanh tra có năng lực, kinh nghiệm là người không chỉ tinh thông về chuyên môn nghiệp vụ thanh tra, mà còn phải có hiểu biết sâu sắc về các vấn đề xã hội, giỏi về các mối quan hệ hành chính, am hiểu luật pháp, giải quyết các mối quan hệ xã hội một cách minh bạch, công tâm theo đúng pháp luật và không trái với tập quán, đạo lý truyền thống của dân tộc. Và người cán bộ thanh tra phải có uy tín cao. Sự tinh thông nghiệp vụ thanh tra, hiểu biết sâu rộng về chính sách, pháp luật cộng với tấm gương trong sáng về đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư của cán bộ thanh tra sẽ làm cho đối tượng thanh tra “tâm phục khẩu phục”, thành khẩn sửa chữa khuyết điểm, tiếp thu phê bình để hoàn thành tốt hơn chức trách, nhiệm vụ của mình.

     Thanh tra là một công việc đặc biệt, chính vì vậy, người cán bộ thanh tra phải là một điển hình về năng lực và đạo đức cách mạng, phải “như cái gương cho người ta soi mặt”. Nhưng không phải người cán bộ thanh tra nào cũng đều hoàn thiện vì ai cũng có ưu, có khuyết. Để phấn đấu trở thành một tấm gương sáng về đạo đức cách mạng thì cán bộ thanh tra phải luôn rèn luyện, tu dưỡng và có ý thức tự phê bình sửa mình để tiến tới sự hoàn thiện bản thân mình. Chính vì vậy, để làm việc cho tốt thì cán bộ thanh tra phải có đạo đức cách mạng và có năng lực. Chúng chỉ có được nhờ không ngừng học tập, trau dồi. Trau dồi đạo đức cách mạng không chỉ là tu dưỡng đạo đức Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư, mà còn là không ngừng học tập, nắm vững tư tưởng và các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; không ngừng cập nhật, nắm bắt, thấm nhuần các chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước;  không ngừng trau dồi, nâng cao nghiệp vụ thanh tra…
 
Untitled.jpg
Các lớp đào tạo về nghiệp vụ thanh tra của Thanh tra Chính phủ là một trong những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao năng lực , chất lượng đội ngũ cán bộ thanh tra.
(Nguồn: http://thanhtra.gov.vn/)
 
      Sáu là, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan thanh tra với cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động thanh tra
      Sự thiếu rõ ràng trong cơ chế phối hợp giữa cơ quan thanh tra với cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động thanh tra chính là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới những chậm chễ, hạn chế trong hoạt động thanh tra thời gian vừa qua. Để hoạt động thanh tra được diễn ra thuận lợi, có hiệu quả thì việc đổi mới, tăng cường mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra với cơ quan có thẩm quyền là một trong những giải pháp quan trọng, hiệu quả.

     Có thể nói, hoạt động thanh tra đang ngày càng có vị trí quan trọng trong hoạt động quản lý, thanh tra là bộ phận không thể rời của công tác lãnh đạo. Vì vậy, việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra đang là đòi hỏi, yêu cầu cấp thiết của ngành thanh tra, trong đó việc thực thi có hiệu quả kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra có vai trò hết sức quan trọng, quyết định hiệu lực hiệu quả của công tác thanh tra, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách nền hành chính theo hướng phục vụ đồng thời với việc hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này đặt ra đòi hỏi tất yếu là hoạt động thanh tra cần phải làm tốt vai trò của mình, kết quả hoạt động thanh tra phải có chất lượng tốt và những kết quả đó cần phải được phát huy rộng rãi.
 
Nguyễn Thị Lan Anh - Thanh tra huyện

Đăng ký nhận tin: