CHUYÊN MỤC

ttgd.png
            Bước vào thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ VII, nhiệm kỳ 2010-2015 trong điều kiện có nhiều thuận lợi và khó khăn thách thức đan xen. Đảng bộ và nhân dân thị trấn Kbang luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo và chỉ đạo của Ban thường vụ Huyện ủy, HĐND, UBND huyện, sự quan tâm giúp đỡ và phối hợp tích cực của các phòng ban của huyện, cơ sở hạ tầng và giao thông trên địa bàn thị trấn từng bước được đầu tư lớn; Nhiều công trình có ý nghĩa chính trị- xã hội trên địa bàn Thị trấn được xây dựng. Cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trên địa bàn thị trấn luôn có tinh thần đoàn kết gắn bó. Cùng với sự tham gia đóng góp của các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân trên địa bàn đã góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập, từng bước ổn định đời sống của nhân dân. Từ đó đã tạo ra sức mạnh tổng hợp xây dựng Thị trấn không ngừng phát triển mọi mặt. Tình hình kinh tế - xã hội; quốc phòng-an ninh ở địa phương được ổn định, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên.
          Tuy nhiên thời tiết trong những năm qua thường xuyên diễn biến phức tạp, khó lường ảnh hưởng đến phát triển sản xuất và đời sống của nhân.
          I- Những Kết quả đạt được:
          1- Trên lĩnh vực kinh tế:
          Kinh tế trên địa bàn có bước phát triển khá, cơ cấu kinh tế được chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng ngành dịch vụ - thương mại và tiểu thủ công nghiệp; Giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, thu nhập bình quân đầu người đến cuối năm 2014 đạt 33,3 triệu đồng/người/năm (tăng hơn 3 lần so với đầu nhiệm kỳ); Thu ngân sách hàng năm tăng cao, thu tại địa phương tăng gấp 3 lần so với đầu nhiệm kỳ.
          1.1 - Về Thương mại - dịch vụ (TM-DV):
 [1] Các loại hình dịch vụ tiếp tục phát triển khá, dịch vụ về vận tải, dịch vụ sản xuất, thông tin liên lạc phát triển với tốc độ nhanh. Tính đến cuối năm 2014, đã có 840 cơ sở kinh doanh - Dịch vụ (tăng 134,8% so với đầu nhiệm kỳ), hoạt động thương mại dịch vụ hàng năm tăng cả về số lượng và quy mô, chủ yếu là kinh doanh vừa và nhỏ. Với kết quả hoạt động kinh doanh hàng năm đến nay thương mại - dịch vụ đã vươn lên là ngành mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế theo định hướng đại hội Đại biểu Đảng bộ thị trấn lần thứ VII đề ra. Tổng giá trị ngành thương mại - dịch vụ trong cơ cấu kinh tế năm 2014 ước đạt 148,1 tỷ chiếm 45,2%.
          1.2- Công nghiệp - Xây dựng (CN-XD):
          Sản xuất Công nghiệp-xây dựng chủ yếu là công nghiệp khai thác, sản xuất đá xây dựng, khai thác và chế biến gỗ; Nhiều cơ sở, doanh nghiệp đã và đang phát huy vai trò chủ lực của nền kinh tế trên địa bàn, sản phẩm làm ra đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng, đảm bảo chất lượng và giá thành sản phẩm hợp lý, có chỗ đứng ổn định trên thị trường góp phần giải quyết việc làm cho hàng trăm lao động, nâng cao giá trị sản xuất. Tổng giá trị ngành Công nghiệp - Xây dựng trong cơ cấu kinh tế năm 2014 ước đạt 58,1 tỷ đồng, chiếm 17,8%.
1.3- Sản xuất nông-lâm nghiêp và thủy sản:
Tổng giá trị nông nghiệp giảm dần và chiếm 37% trong cơ cấu kinh tế. Cơ cấu cây trồng vật nuôi được chuyển dịch theo hướng đa dạng, đáp ứng được yêu cầu thị trường. Tổng giá trị ngành Nông-Lâm nghiệp-Thuỷ sản trong cơ cấu kinh tế đến năm 2014 ước đạt 121,2 tỷ đồng (1).
Đã lãnh đạo triển khai trồng thí điểm cây cao su tiểu điền, nuôi cá lồng bè tại hồ thuỷ điện An khê-Ka nák; trồng rau xanh, kết hợp trồng hoa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa; Lãnh đạo thực hiện tốt công tác bảo vệ rừng tại gốc đi đôi với việc tuyên truyền cho nhân dân nâng cao ý thức, trách nhiệm về công tác bảo vệ rừng, trong 5 năm qua không để xảy ra cháy rừng, hạn chế tình trạng lấn rừng làm nương rẫy và khai thác vận chuyển lâm sản trái phép. Thực hiện tốt việc chuyển đổi cây trồng trên diện tích đất dốc sang trồng rừng có hiệu quả với 61 hộ dân tham gia với tổng diện tích được 75,15 ha. Ôn định định canh, định cư của sáu làng đồng bào Ba na trên địa bàn.
          1.3- Công tác đô thị, giao thông và xây dựng cơ sở hạ tầng:
Đã lãnh đạo thực hiện tốt công tác quản lý đô thị, giao thông và xây dựng. Kết cấu hạ tầng đô thị ngày càng được quan tâm đầu tư hoàn thiện, bộ mặt đô thị đã từng bước được chỉnh trang và đổi mới.
Hệ thống đường giao thông ven đô được quan tâm đầu tư xây dựng, tu sửa hàng năm. Xây dựng bê tông được 63 tuyến đường với tổng chiều dài 8.337m, tổng kinh phí đầu tư là: 6.270.748.069đ (2) . Huy động các nguồn lực trên địa bàn để sửa chữa, nâng cấp và xây dựng các nhà sinh hoạt công đồng đến nay có 23/27 đơn vị có nhà sinh hoạt cộng đồng, cơ bản đảm bảo sinh hoạt cho nhân dân. Thực hiện tốt công tác phòng chống lụt, bão, kịp thời ứng phó với các tình huống thiên tai xảy ra tại địa bàn, qua đó đã hạn chế và giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra.
[2]1.4- Công tác quản lý đất đai, tài nguyên, môi trường:
Hoàn thành việc xây dựng quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2015-2020 và thời kỳ đầu 2011-2015. Điều chỉnh lại địa giới hành chính bị chồng lấn trong nhiều năm đưa vào quản lý gần 50 ha đất sản xuất nông nghiệp. Quan tâm đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân, hàng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu huyện giao, đến hết năm 2014 tỷ lệ cấp giấy chứng nhận đạt 86,94%. Thực hiện tốt quản lý đất trong chương trình 132, 134. Tích cực phối hợp quản lý tốt các khu quy hoạch trên địa bàn; Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng để phục vụ thi công các công trình được đầu tư xây dựng trên địa bàn đảm bảo đúng tiến độ. giải quyết đất tái định canh cho 92 hộ dân làng Groi và đã giao cho nhân dân tổ chức sản xuất với diện tích là 145ha. Quan tâm gỉải quyết thiếu đất sản xuất cho nhân dân 04 làng đồng bào Ba na theo Quyết định 755/QĐ-TTg (3).Quản lý tốt việc khai thác tài nguyên khoáng sản trên địa bàn thu vào ngân sách. Chỉ đạo các TDP trung tâm thực hiện đề án tách rác tại nguồn để xử lý đảm bảo vệ sinh môi trường; Phối hợp đưa nghĩa trang trung tâm huyện vào quản lý và sử dụng theo quy hoạch.
          1.5-Tài chính- ngân sách:
Lãnh đạo thực hiện đồng bộ các biện pháp thu ngân sách, khai thác nguồn thu  đạt kết quả tốt. Thu ngân sách hàng năm đều đạt và vượt so với chỉ tiêu huyện giao (4). Điều hành tốt công tác chi ngân sách gắn với thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ “về tiết kiệm chi ngân sách”, đảm bảo chi cho hoạt động của cả hệ thống chính trị và chi cho con người.
         2- Phát triển văn hoá, xã hội:
         2.1- Về giáo dục:
Trong nhiệm kỳ qua công tác giáo dục luôn được cấp uỷ đảng, chính quyền và nhân dân quan tâm, cùng với sự nỗ lực của đội ngũ thầy giáo, cô giáo và học sinh các nhà trường trên địa bàn, ngành giáo dục thị trấn đã có bước tiến vượt bậc cả về số lượng và chất lượng; Công tác quản lý giáo dục từng bước chặt chẽ hơn, an ninh học đường ổn định, cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học được đầu tư xây dựng, mua sắm đầy đủ, cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ công tác giáo dục trong tình hình mới. Chất lượng dạy và học được nâng lên rõ rệt, số học sinh giỏi các cấp học hàng năm tăng cao. Huy động học sinh trong độ tuổi đến lớp đạt 100%. Duy trì sỹ số học sinh hàng năm đạt 99,5%. Kết quả xét tốt nghiệp THCS, tiểu học hàng năm đạt 100%.
Đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi; Duy trì phổ cập giáo dục tiểu học, THCS. Quản lý tốt các nhóm giữ trẻ tự phát trên địa bàn. Có hai trường được Chủ tịch Nước trao tặng huân chương lao động hạng Nhất và Ba (5); Được công nhận 03 trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I (6), nâng tổng số trường đạt chuẩn mức độ I trên địa bàn lên 07/8 trường đạt 116,66% so với chỉ tiêu nghị quyết. Đẩy mạnh công tác khuyến học khuyến tài, xây dựng xã hội học tập.
[3]2.2- Văn hoá - Thông tin - Thể dục, Thể thao:
Lãnh đạo thực hiện cuộc vận động toàn dân ĐKXD đời sống văn hóa đạt nhiều kết quả, đến nay tổng số GĐVH trên địa bàn 3.313/4.041 hộ đạt 81,98% tổng số hộ gia đình và đạt 86,29% so với chỉ tiêu nghị quyết. Có 17/27 TDP, làng đạt danh hiệu khu dân cư văn hóa, đạt 85% chỉ tiêu nghị quyết (7). Cơ quan thị trấn Kbang được công nhận là công sở văn hóa.
Hoạt động văn hoá - thông tin có bước tiến rõ rệt, cơ bản đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt văn hóa của nhân dân; các thiết chế văn hóa ở cơ sở từng bước đầu tư xây dựng hoàn thiện hơn, các hủ tục lạc hậu dần được loại bỏ, giữ vững và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc nhất là văn hoá cồng chiêng, hiện nay mỗi làng đều có đội cồng chiêng và còn lưu giữ trên 20 bộ cồng chiêng; Phong trào văn hoá văn nghệ thể dục, thể thao phát triển mạnh và rộng khắp trên địa bàn.
2.3- Lao động - Thương binh - Xã hội:
          Các chính sách an sinh xã hội, công tác đền ơn đáp nghĩa được triển khai thực hiện tốt trên địa bàn; Tích cực giải quyết các chế độ chính sách cho các đối tượng còn tồn đọng trong kháng chiến. Huy động các nguồn lực để xây dựng các loại quỹ chuyên dùng, góp phần cùng với ngân sách của địa phương thực hiện tốt các chính sách xã hội đối với các đối tượng chính sách ưu đãi, người có công với cách mạng và các đối tượng xã hội khác. Xây dựng và sửa chữa 08 nhà tình nghĩa trị giá 300 triệu đồng.
Thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo và chương trình 135 kéo dài. Đảm bảo tốt các chính sách hỗ trợ của nhà nước, doanh nghiệp, cộng đồng đến với hộ nghèo, hộ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; xây dựng và sửa chữa 51 căn nhà tình thương cho các hộ nghèo khó khăn về nhà ở với tổng trị giá trên 3 tỷ đồng, hiện nay trên địa bàn đã cơ bản giải quyết xong vấn đề nhà tạm. Tỷ lệ giảm nghèo hàng năm luôn đạt và vượt chỉ tiêu trên giao (8). Không ngừng cũng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức xã hội. Quan tâm lãnh đạo thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà Nước về công tác dân tộc, tôn giáo trên địa bàn, ổn định định canh, định cư đối với sáu làng đồng bào dân tộc Ba na trên địa bàn.
          2.4- Công tác dân số và chăm sóc sức khỏe nhân dân:
Mạng lưới y tế từ thị trấn đến các làng tiếp tục được củng cố, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân được quan tâm; Công tác vệ sinh phòng dịch và công tác khám, chữa bệnh được nâng lên, không có các dịch bệnh lớn lây lan trên địa bàn. Công tác Bảo hiểm y tế được triển khai thực hiện tốt và mang lại nhiều kết quả (9). Công tác bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em được quan tâm đúng mức (10)
Thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia về dân số kế hoạch hoá gia đình, quy mô dân số trên địa bàn phát triển ổn định chất lượng dân số được nâng lên. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 0,87% giảm 0,31% so với chỉ tiêu nghị quyết. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng năm 2010 chiếm 12,98% đến 2014 giảm xuống còn 10,03%.
[4]3- Vê :Công tác quốc phòng-An ninh
          3.1- Công tác quốc phòng, quân sự địa phương:
Thường xuyên quan tâm xây dựng củng cố lực lượng dân quân vững mạnh về mọi mặt đáp ứng yêu cầu bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân trong tình hình mới (11). Thực hiện tốt công tác luân phiên lực lượng (năm 2010 đạt 8,9% quân số, năm 2014 đạt 26,02%). Làm tốt công tác rà soát thanh niên trong độ tuổi nhập ngũ, từng bước nâng cao chất lượng công tác tuyển quân, giao quân hàng năm đạt 100% chỉ tiêu huyện giao. Diễn tập vận hành theo cơ chế nghị quyết 28/NQ-BCT PT12 đạt loại khá. Quan tâm chỉ đạo công tác bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho các đối tượng theo quy định. Nhìn chung năng lực chỉ huy, huấn luyện, làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu của BCH thị đội và toàn thể lực lượng dân quân, dự bị động viên đã được nâng lên.
             3.2- Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội:
            An ninh chính trị trên địa bàn luôn được giữ vững, trật tự an toàn xã hội cơ bản được đảm bảo, tiếp tục quán triệt nghị quyết số 08-NQ/BCT (khoá VIII) “về bảo vệ An ninh chính trị“; Nghị quyết TW8 (khoá IX) “về chiến lược bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới“; Đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động tôn giáo trái pháp luật, tăng cường công tác quản lý nhân hộ khẩu nhất là Việt kiều về thăm thân nhân; phối hợp với các lực lượng cấp trên điều tra giải quyết kịp thời các vụ việc trọng án. Phát động sâu rộng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc, Quan tâm xây dựng lực lượng Công an thị trấn vững mạnh gắn với hoạt động của các tổ tự quản ANTT tại địa bàn khu dân cư. Lãnh đạo thực hiện tốt công tác phòng ngừa và đấu tranh trấn át các loại tội phạm, giữ  vững ANCT – TTATXH trên địa bàn.  Kết quả phân loại hàng năm đơn vị thị trấn đều được công nhận là đơn vị đạt chuẩn an toàn về ANTT.
            4- Công tác xây dựng Đảng:
            4.1- Công tác giáo dục chính trị tư tưởng:
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ đảng viên và nhân dân đã được các cấp uỷ đảng quan tâm lãnh dạo, từ đó đã nâng cao lập trường tư tưởng và bản lĩnh chính trị của cán bộ, Đảng viên và nhân dân. Đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn  với việc đăng ký sổ tay "Làm theo gương Bác". đã tổ chức quán triệt học tập, gắn với xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện các chỉ thị, kết luận và nghị quyết của Đảng cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân kịp thời, đầy đủ, đồng thời tổ chức sơ tổng kết các chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh uỷ và của Huyện uỷ.
           4.2- Kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" và việc "học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh".
Thực hiện Nghị quyết TW4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng đảng hiện nay”, Ban thường vụ Đảng ủy đã phổ biến, quán triệt và xây dựng kế hoạch thực hiện theo đung nội dung quy trình hướng dẫn của tổ chức kiểm điểm tự phê bình và phê bình của tập thể Ban thường vụ Đảng ủy, đồng thời chỉ đạo các chi bộ trực thuộc, các tập thể và cá nhân tổ chức kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo 3 nội dung Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI). Nhìn chung, qua đợt kiểm điểm đã thực sự chỉ ra những hạn chế khuyết điểm của tập thể và cá nhân. Đồng thời có kế hoạch khắc phục kịp thời, qua đó đã tạo sự chuyển biến tích cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt.
Thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/05/2013 của Bộ Chính Trị (khóa XI) "Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", trên cơ sở đó hàng năm Đảng ủy đã cụ thể hóa thực hiện theo chuyên đề để triển khai đến từng tổ chức, cán bộ, Đảng viên và nhân dân. Việc đăng ký sổ tay "Làm theo gương Bác" của cán bộ, Đảng viên trong toàn Đảng bộ, nhìn chung sau ba năm triển khai thực hiện việc đăng ký sổ tay "Làm theo gương Bác" luôn được các chi bộ quan tâm lãnh đạo,  được đông đảo Đảng viên đồng tình hưởng ứng.
           4.3- Xây dựng đảngVề tổ chức:
 Ban chấp hành Đảng bộ và các chi bộ đã xây dựng Quy chế làm việc của nhiệm kỳ, hàng năm có rà soát sửa đổi, bổ sung và duy trì hoạt động theo quy chế, phát huy tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, thường xuyên củng cố về tổ chức, nâng cao chất lượng sinh hoạt. Trong nhiệm kỳ đã thành lập mới 01 chi bộ nâng tổng số chi bộ trong toàn Đảng bộ lên 37 chi bộ. Hàng năm số chi bộ được phân loại hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên đạt trên 85%, số đảng viên được phân loại đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên đạt trên 90%.
Công tác quản lý cán bộ, công tác đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị; quản lý nhà nước và chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ trẻ, cán bộ nguồn được chú trọng. Trong nhiệm kỳ đã có 175 lượt cán bộ được cử đi đào tạo, bồi dưỡng, kiện toàn 4 chức danh cán bộ chủ chốt, chỉ định bổ sung 26 cán bộ giữ các chức danh trong hệ thống chính trị. Thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong Đảng.
Công tác phát triển đảng viên mới đã ngày càng được chú trọng và có chất lượng hơn. Đa số đảng viên có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, chấp hành tốt Điều lệ và các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, hoàn thành tốt nhiệm vụ được phân công. Trong nhiệm kỳ đã kết nạp được 107 đảng viên. Tổng số đảng viên trong Đảng bộ hiện nay là 483 đồng chí, hiện có 24 chi bộ có chi ủy, 13 chi bộ chưa có chi ủy.
           4.4- Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
Phương thức lãnh đạo của cấp uỷ Đảng từ thị trấn đén các tổ dân phố làng đã từng bước được đổi mới, đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của của Đảng trên mọi lĩnh vực đời sống kinh tế, xã hội, đồng thời phát huy tính chủ động sáng tạo của cả hệ thống chính trị. Giảm các cuộc họp không thật sự cần thiết, tăng cường nhiều thời gian cho công tác kiểm tra, giám sát ở cơ sở; Phân công các đồng chí Đảng uỷ viên tham gia dự họp với các chi bộ hàng tháng để nắm tình hình hoạt động của các chi bộ và chỉ đạo kịp thời. Phân công sáu tổ chức chính trị xã hội của thị trấn phụ trách giúp đỡ sáu làng trên địa bàn. Điều một số đồng chí đảng  viên về sinh hoạt ở các chi bộ có ít đảng viên đồng thời cơ cấu giữ chức vụ bí thư, phó bí thư các chi bộ đó, nhất là các chi bộ làng, nhằm cũng cố vai trò lãnh đạo của đảng;
          4.5- Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng
Công tác kiểm tra giám sát của Đảng luôn được tăng cường, góp phần cũng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và xây dựng Đảng bộ ngày càng trong sạch vững mạnh; Đã triển khai thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát toàn khóa và hàng năm; Thường xuyên kiện toàn cũng cố bộ máy cán bộ, đảng viên làm nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của đảng uỷ và các chi bộ trực thuộc; Tổ chức tập huấn cho đội ngũ cán bộ, đảng viên làm công tác kiểm tra, giám sát của Đảng uỷ và các chi bộ nhằm bồi dưỡng nghiệp vụ công tác kiểm tra, giám sát. Chỉ đạo UBKT Đảng uỷ thị trấn và các chi bộ trực thuộc thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng;  Kịp thời xử lý, chấn chỉnh những sai phạm của tổ chức đảng và đảng viên. Trong nhiệm kỳ Đảng uỷ đã tiến hành kiểm tra (theo điều 30 Điều lệ Đảng) được 37 chi bộ và 204 đảng viên; Giám sát 3 chi bộ và 134 đảng viên . Kiểm tra theo điều 32 điều lệ Đảng là 13 đảng viên có dấu hiệu vi phạm (giảm so với nhiệm kỳ trước là 8 đảng viên). Qua kiểm tra, kết luận có 11 đảng viên vi phạm, chiếm 84,6% / tổng số đảng viên được kiểm tra, phải thi hành kỷ luật là 11 đảng viên chiếm 100% số đảng viên vi phạm.
           4.6- Kết quả về công tác dân vận:
Công tác dân vận của cả hệ thống chính trị từ thị trấn đến các chi bộ trực thuộc được chú trọng và hiệu quả hơn. Qua đó đã góp phần tích cực vào cũng cố thực lực chính trị ở địa bàn dân cư và sự đồng thuận của toàn xã hội. Thực hiện theo quyết định 221-QĐ/HU và quy định 01-QĐ/HU của Ban thường vụ huyện ủy "Phân công các cơ quan, đơn vị phụ trách địa bàn xã, thị trấn và phụ trách làng đặc biệt khó khăn", qua đó đã giúp các làng từng bước cũng cố, kiện toàn nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thông chính trị, tạo điều kiện, hướng dẫn cho nhân dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ổn định định canh, định cư phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Tổ chức triển khai thực hiện tốt phong trào thi đua "Dân vận khéo" giai đoạn 2009 - 2014, xây dựng các mô hình Dân vận khéo. Chủ động tham mưu nắm tình hình về công tác dân tộc, công tác tôn giáo trên địa bàn và các vấn đề nảy sinh để chỉ đạo giải quyết kịp thời.
           5- Xây dựng chính quyền:
Lãnh đạo Hội đồng nhân dân thị trấn tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động trong các kỳ họp, chất lượng tiếp xúc cử tri và thực hiện tốt chức năng giám sát của HĐND trên các lĩnh vực. Đồng thời thực hiện tốt công tác tiếp công dân của HĐND. Kết quả đánh giá phân loại hàng năm đều đạt đơn vị tiên tiến xuất sắc. Năm 2012 đạt đơn vị  dẫn đầu trong cụm thi đua.
Lãnh đạo UBND thường xuyên cũng cố tổ chức cán bộ, nâng cao hiệu quả trong công tác điều hành và quản lý nhà nước từ thị trấn xuống các tổ dân phố và làng. Thực hiện tốt quy chế hoạt động của UBND. chú trọng cải tiến lề lối làm việc, phát huy tốt vai trò trách nhiệm của cán bộ, công chức và thực hiện nhiệm vụ của TDP, làng. Trong giai đoạn 2010-2014 liên tục là đơn vị dẫn đầu phòng trào thi đua khối cụm xã trung tâm, năm 2013 nhân dân và cán bộ thị trấn vinh dự được UBND tỉnh Gia Lai tặng cờ thi đua cho đơn vị xuất sắc dẫn đầu cụm thi đua. Thực hiện có hiệu quả công tác cải cách hành chính, trong đó chú trọng công tác kiểm soát thủ tục hành chính, gắn với nâng cao chất lượng giải quyết công việc cho tổ chức và nhân dân khi đến liên hệ công tác tại cơ quan.            
Lãnh đạo thực hiện tốt công tác tư pháp hộ tịch, thực hiện quy chế dân chủ, công tác tiếp công dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; Chất lượng công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được nâng lên, qua đó đã từng bước nâng cao nhận thức và hiểu biết về pháp luật cho nhân dân. Đẩy mạnh thực hiện pháp lệnh 34 về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở gắn với việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung và tổ chức thực hiện hương ước, quy ước. Qua đó đã phát huy được sức mạnh của nhân dân trong việc tổ chức triển khai các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Thực hiện tốt công tác tiếp công dân định kỳ, giải quyết kịp thời các đơn thư kiến nghị của nhân dân, phát huy tốt vai trò công tác hòa giải ở khu dân cư góp phần giảm thiểu tình trạng đơn thư khiếu kiện vượt cấp (Tiếp nhận và giải quyết 90 đơn,thư và giả quyết xong 90 đơn thư đạt 100%).
6- Lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội:
          Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã được kiện toàn, cũng cố về tổ chức cơ bản đáp ứng được với yêu cầu nhiệm vụ hiện nay. Có sự nâng cao về chất lượng, đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động gắn với phương châm hướng về cơ sở, địa bàn dân cư, sâu sát với nhân dân, kịp thời nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Đã tập hợp và vận động nhân dân chấp hành tốt các chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước. Công tác giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền từng bước đã mang lại kết quả tốt. Nhiều phong trào hành động cách mạng do Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phát động đi vào chiều sâu, mang tính thiết thực. Thông qua các hoạt động, trong 5 năm qua, MTTQ và các đoàn thể đã vận động đóng góp quỹ Vì người nghèo được 83.961.000 đồng, xây dựng 1 nhà tình thương, 2 nhà mái ấm tình thương, 2 nhà đại đoàn kết; quỹ hỗ trợ nông dân được 51.778 000đ ngoài ra Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội CCB nhận ủy thác với NHCSXH 31,5 tỷ đồng giúp cho hội viên xóa đói giảm nghèo.
 Hàng năm có 95% các tổ chức đoàn thể nhân dân đạt vững mạnh, không có tổ chức đoàn yếu kém; Chỉ đạo, tổ chức thành công Đại hội nhiệm kỳ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể từ thị trấn đến TDP, làng.
           II- Nhận xét, Đánh giá chung:
Nhìn lại 5 năm thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ thị trấn lần thứ VII, bên cạnh những thuận lợi, Đảng bộ và nhân dân Thị trấn Kbang phải đối diện trước nhiều khó khăn thách thức. Song dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Đảng bộ thị trấn khoá VII cùng với tinh thần đoàn kết nỗ lực của cán bộ, đảng viên và nhân dân thị trấn đã quyết tâm phấn đấu đạt được những thành quả quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các chỉ tiêu nhiệm vụ mà nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ VII đề ra cơ bản đạt được.
Kinh tế tiếp tục được ổn định có bước phát triển khá, cơ cấu kinh tế được chuyển dịch hợp lý. Các loại hình kinh doanh và dịch vụ thương mại được tiếp tục đầu tư và phát triển, các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, xoá đói giảm nghèo. Có nhiều tiến bộ, các chế độ chính sách xã hội ngày càng được quan tâm hơn; tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được ổn định và giữ vững. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể chính trị-xã hội từ thị trấn đến TDP và làng  từng bước được củng cố, đáp ứng cơ bản yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra. Nội dung và phương thức hoạt động được đổi mới và đa dạng.
 

(1) Tổng diện tích gieo trồng hàng năm đều đạt và vượt chỉ tiêu huyện giao. Năm 2014 là 1.157,3 ha đạt 77,15% so với chỉ tiêu nghị quyết (bằng 102,8% so với chỉ tiêu huyện giao). Tổng sản lượng thực (quy thóc) đến năm 2014 ước đạt 3.404 tấn, tăng bình quân 11,4%/năm so với đầu nhiệm kỳ. Tổng đàn gia súc 12.370 con đạt 82,46% so với chỉ tiêu nghị quyết; Tổng đàn gia cầm 30.150 con đạt 75,37% chỉ tiêu NQ. Tổng sản lượng cá nước ngọt khoảng 25 tấn đạt 125 % so với chỉ tiêu NQ.
(2) Trong đó vốn đóng góp của nhân dân là: 2.189.750.942đ, còn lại là Tỉnh và Huyện hỗ trợ.
 
(3) gồm 85 hộ dân thuộc 04 làng ĐBKK gồm: Làng Nak, Chiêng, Chưréh và làng Hợp tại đầm Đắk Kmao với diện tích 9,42ha  đất lúa nước 2 vụ. Đã lập hồ sơ trình UBND tỉnh phê duyệt.
(4) Dự kiến thu ngân sách năm 2014 ước đạt 5,8 tỷ đồng, tăng 3,5 tỷ đồng so với đầu nhiệm kỳ, tỷ lệ tăng bình quân 12,9%/năm (Tăng chủ yếu chi cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng).
(5) trường Tiểu học Lý Tự Trọng và trường Mầm non bán trú 1/5.
(6) Bông hồng I, Lê Quý Đôn, Nguyễn Bỉnh Khiêm.
 
 
 
(7) Trong đó 1 đơn vị đạt danh hiệu làng văn hoá kiểu mẫu ( làng hợp).
(8) Năm 2015 số hộ nghèo là 321 hộ, chiếm 7,94%, giảm 5,96% so với đầu nhiệm kỳ bình quân chung giảm 1,19 %/năm.
(9) Đến hết 2014 BHYT tự nguyện 2.547người đạt 15,3% dân số (Tổng số người tham, gia BHYT trên địa bàn 11.468 người, đạt 69 % dân số)
(10) 100% trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ BHYT, hàng năm tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đủ liều đạt 95%.
                        (11) Lực lượng dân quân hiện có 146 đ/c chiếm 0,85% so với dân số, tỷ lệ nữ đạt 10,95% so với lực lượng dân quân, công tác huấn luyện lực lượng hàng năm đạt từ 87 đến 95% quân số).